Bài 28

Thần Linh: Nguồn Mạch Đời Sống Cầu Nguyện

 

 

T

hể thức đệ nhất và tuyệt nhất biểu hiệu đời sống nội tâm là việc cầu nguyện. Các thày dạy và các nhà thông thạo đời sống tu đức đã thâm tín điều này đến nỗi họ thường nói về đời sống nội tâm như là một đời sống cầu nguyện. Tác giả chính yếu của đời sống này là Chúa Thánh Thần, như Ngài đã đóng vai trò này nơi Đức Kitô. Thật vậy, chúng ta đã đọc thấy sự kiện này trong Phúc Aâm thánh Luca: “Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu hứng khởi trong Thánh Thần thốt lên: ‘Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xin chúc tụng Cha’” (Lk.10:21). Đây là một lời cầu chúc tụng và tạ ơn, mà, theo thánh ký, thoát lên từ nỗi hân hoan “trong Thánh Thần”.

            Chúng ta biết rằng, trong cuộc hoạt động thiên sai của mình, Chúa Giêsu thường lui vào nơi cô quạnh để cầu nguyện, và Người đã cầu nguyện cả đêm (x.Lk.6:12). Để cầu nguyện, Người thích những nơi hoang vắng như thế, nơi giúp cho con người chuyện vãn với Thiên Chúa, Đấng hết lòng đáp ứng nhu cầu và xu hướng của mọi thần trí biết nhạy cảm đối với mầu nhiệm siêu việt thần linh (x.Mk.1:35; Lk.5:16). Cựu Ước (x.Ex.34:28; 1Kgs.19:8) cho chúng ta thấy Moisen và Elia đã hành động theo cung cách này. Sách tiên tri Hosea cũng cho chúng ta thấy rằng những nơi hoang vắng giúp cho việc hứng khởi cầu nguyện. Thiên Chúa “sẽ dẫn (chúng ta) vào trong sa mạc mà nói với lòng (chúng ta)” (x.Hos.2:16).

            Trong cuộc sống của chúng ta, cũng như trong cuộc sống của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần tỏ mình ra như là một Thần Linh của việc nguyện cầu. Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói với chúng ta một cách hùng hồn trong đoạn thư gửi giáo đoàn Galata như chúng ta đã trích dẫn trước đây: “Để  chúng ta thấy được mình là con, Thiên Chúa đã sai Thần Linh Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu lên ‘Abba, Lạy Cha!’” (Gal.4:6). Như thế, bằng một cách nào đó, Chúa Thánh Thần đã chuyển sang lòng chúng ta lời nguyện cầu của Con là Đấng đã dâng Chúa Cha tiếng kêu lên này. Cả lời cầu nguyện của chúng ta nữa cũng diễn tả “việc chúng ta được thừa nhận làm con” là việc được ban cho chúng ta trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô (x.Rm.8:15). Cầu nguyện là tuyên xưng niềm tin của chúng ta nhận thức được chân lý “chúng ta là con cái” và là “những người thừa tự của Thiên Chúa”, “những người cùng được thừa tự với Đức Kitô”. Cầu nguyện khiến cho chúng ta sống thực tại siêu nhiên này nhờ tác động của Chúa Thánh Thần là Đấng “làm chứng cho tâm linh chúng ta” (x.Rm.8:16-17).

            Từ khi Giáo Hội mới bắt đầu, các môn đồ của Đức Kitô đã sống chính niềm tin này, một niềm tin cũng được thể hiện vào lúc lâm chung. Chúng ta thừa biết lời cầu nguyện của thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi, một con người “đầy Chúa Thánh Thần”. Đang khi bị ném đá, Ngài đã chứng tỏ mối hiệp nhất đặc biệt giữa ngài với Đức Kitô qua lời than, như Vị Tôn Sư tử giá của mình, liên quan đến thành phần hành hình mình: “Lạy Chúa, xin chớ chấp tội họ!”. Thế rồi, vẫn trong trạng thái nguyện cầu, thánh nhân chăm chú nhìn lên vinh quang của Đức Kitô đứng “bên hữu Thiên Chúa” mà kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy tâm thần của con” (x.Acts 7:55-60). Lời nguyện cầu này là hoa trái của tác động Thánh Thần nơi lòng của vị tử đạo.

            Người ta cũng thấy cùng một hứng khởi nguyện cầu nội tâm nơi hành động tử đạo của các vị khác, thành phần tuyên xưng Đức Kitô. Những vị sứ giả đồng loạt này đã nói lên ý thức Kitô giáo được đào luyện nơi trường học Phúc Aâm cũng như nơi những bức thư của các tông đồ là những gì làm nên ý thức của chính Giáo Hội.

            Thực tế cho thấy, nhất là theo giáo huấn của Thánh Phaolô, Chúa Thánh Thần tác hành như tác giả của đời sống nguyện cầu Kitô giáo, trước hết, là vì Ngài thúc đẩy chúng ta cầu nguyện. Ngài chính là Đấng làm phát sinh nơi chúng ta, nhất là lúc bị cám dỗ, nhu cầu và ước muốn thực hiện việc “tỉnh thức và cầu nguyện” như Chúa Kitô kêu gọi, vì “tinh thần thì linh hoạt song xác thịt lại yếu nhược” (Mt.26:41). Lời Chúa Kitô kêu gọi này như được âm dội nơi lời huấn dụ của Bức Thư gửi giáo đoàn Eâphêsô: “Bằng tất cả nguyện cầu và kêu xin, anh em hãy cầu nguyện trong Thần Linh ở mọi hoàn cảnh. Để được như thế, anh em hãy hết sức kiên tâm coi chừng... hầu tôi nói lên những lời hiên ngang làm tỏ hiện mầu nhiệm Phúc Aâm” (Eph.6:18-19). Thánh Phaolô nhận thức rằng thánh nhân đang ở trong tình trạng của những người cần cầu nguyện để chống lại chước cám dỗ, và để khỏi trở thành mồi ngon cho nỗi yếu hèn loài người, cũng như để nhìn thẳng vào sứ vụ được kêu gọi. Thánh nhân luôn luôn nhớ và đôi khi rùng mình nhận thức được trách nhiệm ủy nhiệm cho ngài trong việc làm chứng nhân cho Đức Kitô và cho Phúc Aâm trên thế giới, nhất là giữa thành phần dân ngoại. Thánh nhân biết rằng điều ngài được gọi để làm và để nói cũng là và thực ra là công việc của Thần Chân Lý mà Chúa Giêsu nói đến: “Ngài sẽ lấy những gì từ Thày mà truyền đạt cho các con” (Jn.16:14). Chúa Thánh Thần dùng “những gì từ Chúa Kitô” để “tôn vinh Người” qua sứ điệp truyền giáo. Bởi thế mà chỉ khi nào con người đi sâu vào lãnh vực Chúa Kitô liên kết với Thần Linh của Người trong mầu nhiệm nên một với Chúa Cha, họ mới có thể hoàn thành cùng một sứ vụ như thế. Cầu nguyện là đường lối để tiến vào mối hiệp thông này, một mối hiệp thông được Thần Linh khơi dậy trong chúng ta.

            Bằng những lời hết sức sâu xa trong Thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Tông Đồ cho thấy cách thức “Thần Linh đến trợ giúp nỗi yếu hèn của chúng ta; vì chúng ta không biết mình phải cầu nguyện ra sao, nên chính Thần Linh đã chuyển cầu cho chúng ta bằng những lời than khôn tả” (Rm.8:26). Thánh Phaolô cũng nghe thấy những lời than tương tự vang lên ngay từ thâm cung của thế giới tạo vật, thành phần “đang ngong ngóng mong đợi cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa” trong hy vọng được “giải cứu khỏi bị làm tôi cho hư hoại, quằn quại kêu lên cho đến nay” (Rm.8:19,21-22). Trước bối cảnh linh thiêng có tính cách lịch sử này, Chúa Thánh Thần đang hoạt động: “Đấng dò thấu tâm can thì biết được ý hướng của Thần Linh, vì Ngài chuyển cầu cho các thánh theo ý muốn của Thiên Chúa” (Rm.8:27). Đến đây chúng ta đang ở ngay nguồn mạch của việc cầu nguyện thân tình và sâu xa nhất. Thánh Phaolô cắt nghĩa cho chúng ta thấy và làm cho chúng ta hiểu rằng Chúa Thánh Thần chẳng những thôi thúc chúng ta cầu nguyện mà chính Ngài còn cầu nguyện trong chúng ta nữa!

            Chúa Thánh Thần ở ngay mạch nguồn của lời cầu nguyện, một lời nguyện cầu nói lên tuyệt hảo nhất mối liên hệ hiện hữu giữa các Ngôi Vị Thần Linh trong Ba Ngôi: lời cầu nguyện tôn vinh và tạ ơn, làm hiển danh Chúa Cha cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Lời cầu nguyện này đã là lời cầu nguyện ở trên môi miệng của các vị tông đồ vào ngày Lễ Hiện Xuống, khi các vị loan báo “những công việc quyền năng của Thiên Chúa” (Acts 2:11). Những điều này cũng đã xẩy ra nơi trường hợp của viên đại đội trưởng Cornêliô, lúc mà thánh Phêrô đang diễn giải, thì những ai hiện diện bấy giờ đều đã nhận được “tặng ân Chúa Thánh Thần” và rồi “đã tôn vinh Thiên Chúa” (x.Acts 10:45-47).

            Trong Thư gửi cho giáo đoàn Côlôsê, Thánh Phaolô đã giải thích cảm nghiệm Kitô giáo đầu tiên này, một cảm nghiệm đã trở thành gia sản chung của Giáo Hội sơ khai. Sau khi biểu lộ ước mong sao cho “lời của Chúa Kitô dồi dào ở trong anh em” (Col.3:16), thánh nhân đã kêu gọi các Kitô hữu giữ việc cầu nguyện, bằng việc “ca hát với niềm tạ ơn Thiên Chúa trong lòng anh em”, chỉ dẫn và thúc giục nhau hát “những thánh vịnh, thánh ca và những khúc ca linh thiêng” (Col.3:17). Và thánh nhân xin họ chuyển lối sống nguyện cầu này sang bất cứ những gì họ làm trong lời nói cũng như trong hành động. “Hãy nhân danh Chúa Giêsu Kitô mà làm mọi sự, nhờ Người tạ ơn Thiên Chúa là Cha” (Col.3:17). Trong Thư gửi giáo đoàn Êphêsô thánh nhân cũng khuyên tương tự như thế: “Anh em hãy làm cho mình đầy thần trí, ngỏ lời với nhau bằng các bài thánh vịnh và các bản thánh ca... hát mừng Chúa trong lòng anh em, nhân danh Chúa Giêsu Kitô mà luôn tạ ơn Thiên Chúa là Cha về mọi sự “ (Eph.5:18-20).

            Điều này mang chúng ta về lại với chiều kích Ba Ngôi của lời cầu nguyện Kitô giáo theo giáo huấn và huấn dụ của thánh Tông Đồ. Người ta cũng có thể thấy, cùng với thánh Tông Đồ, chính Thánh Linh là Đấng thôi thúc loại cầu nguyện này và hình thành nó nơi lòng con người. “Đời cầu nguyện” của các thánh, các nhà thần bí, các trường phái và trào lưu tu đức được phát triển qua các thế hệ Kitô giáo cũng hợp với cảm nghiệm của các cộng đồng sơ khai. Phụng vụ của Giáo Hội cũng thể hiện như thế, chẳng hạn trong kinh Vinh Danh chúng ta đọc: “Chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa”; tương tự nơi cả kinh Tạ Ơn (Te Deum), chúng ta chúc tụng Thiên Chúa và tuyên xưng Ngài là Chúa. Trong phần mở đầu là một lời mời gọi giống nhau: “Chúng ta hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa của chúng ta”, và giáo hữu được kêu gọi để tỏ lòng đáp ứng và tham dự: “Thật là phải lẽ và chính đáng”. Đẹp đẽ biết bao khi lập lại, cùng với Giáo Hội nguyện cầu, vào cuối mỗi một thánh vịnh cũng như vào cuối nhiều dịp khác như thế, một đoản khúc Gloria Patri ngắn gọn và uy linh: “Sánh danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần...”

            Việc tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi theo tác động của Chúa Thánh Thần là Đấng cầu nguyện trong chúng ta và cho chúng ta, diễn ra ở ngay cõi lòng. Thế nhưng, việc tôn vinh này cũng được chuyển thành việc chúc tụng bằng lời nói để đáp ứng những bộc lộ cá nhân cũng như chung cộng đồng trong việc cử hành những kỳ công của Thiên Chúa. Linh hồn kính mến Thiên Chúa tự bộc phát bằng những lời lẽ, và cũng dễ dàng bằng các bài hát, như vốn thực hiện trong Giáo Hội kể từ các cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi. Thánh Augustinô cho chúng ta biết rằng “Thánh Ambrôsiô đã mang ca hát vào Giáo Hội Milan” (x.Tự Thú,9,c.7: PL 32,770). Thánh nhân nhớ rằng ngài đã khóc khi nghe “những bài thánh ca và những bài hát âm vang ngọt ngào trong Giáo Hội Chúa, và cảm thấy hết sức xúc động” (x.Tự Thú,9,c.6: PL 32,769). Ngay cả âm thanh cũng có thể góp phần vào việc chúc tụng Thiên Chúa, khi những khí cụ giúp vào việc “nâng cảm tình con người lên” (Thánh Tôma Aquinô, Expositio in Psalmos,32,2).  Tác dụng này nói lên giá trị của các bài hát và ca nhạc trong phụng vụ của Giáo Hội, vì “chúng giúp khơi động cảm tình đối với Thiên Chúa ... bằng những cung điệu khác nhau” (Summa Theol., II-II,q.92,a.2; x.Thánh Augustinô, Confessions,10,c.22: PL 32,800). Nếu những tiêu chuẩn phụng vụ được tuân hành, ngày nay người ta cũng có thể cảm nghiệm được điều Thánh Augustinô gợi lại ở một đoạn Tự Thú khác của ngài (9,c.4,n.8): “Oâi Chúa Trời con ơi, con sẽ dâng lên Chúa những bài ca nào khi đọc các thánh vịnh Đavít, các ca vịnh của đức tin, bản nhạc của lòng đạo đức... Con sẽ dâng lên Chúa những bản nhạc nào đây khi đọc những thánh vịnh ấy! Con cảm thấy nóng nẩy yếu mến Chúa biết bao và muốn đọc những thánh vịnh này trước mặt toàn thể thế giới, nếu con làm được...” Tất cả những điều này xẩy ra khi linh hồn con người hay cộng đoàn chiều theo hoạt động sâu xa của Chúa Thánh Thần.

           

(Bài Giáo Lý thứ 73 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 17-4-1991,

trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)